uỷ ban nhân dân xã yên phong tích cực tuyên truyền truyển đổi số.
CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI HƯỚNG TỚI MÔ HÌNH LÀNG THÔNG MINH
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
đang mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của nhân loại. Chuyển đổi số
trở thành xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Bài viết phân tích chủ trương về chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông
thôn và xây dựng làng thông minh ở nước ta, chỉ ra thực trạng một số mô hình
làng thông minh hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường chuyển đổi số
trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn thông minh trong thời gian
tới.

Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn
mới góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn
hiện đại, nông dân văn minh - Ảnh: baotainguyenmoitruong.vn
1.
Chuyển đổi số nông thôn và mô hình làng thông minh
Về
chuyển đổi số nông thôn
Theo
Bộ Thông tin và Truyền thông, chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và
toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản
xuất dựa trên các công nghệ số(1).
Chuyển
đổi số trong xây dựng nông thôn là một xu hướng tất yếu trong bối cảnh Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Nội dung chuyển đổi số nông thôn tập trung trên ba
phương diện: (i) Phát triển chính quyền số ở nông thôn; (ii) Phát triển các chủ
thể kinh tế số ở nông thôn; (iii) Phát triển xã hội số cho cộng đồng dân cư ở
nông thôn. Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới góp phần thực hiện mục
tiêu xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh(2).
Đối
với người dân: Chuyển đổi số giúp bình đẳng hơn về cơ hội tiếp cận các dịch vụ,
đào tạo, tri thức. Người dân được chính quyền thấu hiểu và phục vụ tốt hơn nhờ
vào dữ liệu và công nghệ số, tham gia các hoạt động học tập, kinh doanh, giải
trí, tư vấn, chăm sóc sức khỏe... mà không phụ thuộc vào vị trí, khoảng cách
địa lý.
-
Đối với doanh nghiệp: Những lợi ích dễ nhận biết nhất của chuyển đổi số là giảm
chi phí vận hành; tiếp cận và mang đến trải nghiệm tốt hơn cho khách hàng; phản
ứng nhạy bén với sự thay đổi của thị trường; tăng năng suất lao động và tăng
lợi nhuận. Chuyển đổi số dẫn đến sự xuất hiện những mô hình kinh doanh mới,
những thị trường mới mà trong đó sự linh hoạt và sáng tạo mới là yếu tố quyết
định thành công.
-
Đối với chính quyền: Chuyển đổi số giúp hoạt động hiệu lực, hiệu quả và minh
bạch hơn. Chính quyền điều hành công việc thông qua các công cụ hỗ trợ; nhanh
chóng ra quyết định với đầy đủ thông tin, tài nguyên và nguồn lực.
-
Đối với xã hội: Chuyển đổi số tác động tích cực đến mọi mặt của đời sống xã
hội, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân thông qua
hệ thống giáo dục thông minh, y tế thông minh.
Về
làng thông minh
Từ
năm 2016, Ủy ban châu Âu đã khởi động chính sách thí điểm xây dựng làng thông
minh giai đoạn 2016 - 2020 tại một số quốc gia với tên gọi Châu Âu hành động
vì làng thông minh, dựa trên công nghệ kết nối với các giá trị bản địa nhằm
bảo tồn và phát triển các giá trị châu Âu, giúp người dân nông thôn có công ăn
việc làm và cuộc sống ấm no.
Theo
Nghị viện châu Âu: Làng thông minh là cộng đồng xóm, thôn, xã ở các vùng nông
thôn sử dụng các giải pháp sáng tạo dựa trên các thế mạnh và cơ hội của địa
phương để phát triển và thực hiện chiến lược nhằm cải thiện kinh tế, xã hội và
môi trường thông qua việc ứng dụng các công nghệ kỹ thuật số(3).
Tháng
4-2018, một tuyên bố khác đã được chấp nhận rộng rãi ở châu Âu là Tuyên bố Bled
(Bled, Slovennia) với tiêu đề Tương lai thông minh hơn của các khu vực nông
thôn ở EU. Trong đó, làng thông minh sẽ bao gồm: canh tác chính xác, các nền
tảng kỹ thuật số khác nhau (học tập điện tử, y tế điện tử, quản trị điện tử,
giao thông, ẩm thực, dịch vụ xã hội, bán lẻ), nền kinh tế chia sẻ, nền kinh tế
vòng tròn giảm chất thải và tài nguyên cứu sinh, kinh tế dựa trên sinh học,
năng lượng tái tạo, du lịch nông thôn, đổi mới xã hội trong dịch vụ nông thôn
và tinh thần kinh doanh(4).
Theo
Đánh giá Nông thôn châu Âu số 26, các làng thông minh sẽ tạo ra 5 động lực
chính: thứ nhất, ứng phó với tình trạng giảm dân số và thay đổi nhân khẩu học;
thứ hai, tìm kiếm các giải pháp để cắt giảm kinh phí công và tập trung hóa các
dịch vụ công; thứ ba, khai thác mối liên kết với các thị trấn, thành phố nhỏ;
thứ tư, phát huy tối đa vai trò của khu vực nông thôn trong quá trình chuyển
đổi sang nền kinh tế vòng tròn, cácbon thấp; thứ năm, thúc đẩy chuyển đổi số
khu vực nông thôn(5).
Theo
N.Viswanadham và S.Vedula, hệ sinh thái làng thông minh được xây dựng trên
khuôn khổ STERM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Quy định và Quản lý). Hệ sinh
thái làng thông minh được hình thành từ sự đồng phát triển của 4 lĩnh vực: 1)
Chuỗi dịch vụ; 2) Công nghệ và cơ chế cung cấp dịch vụ; 3) Các thể chế ảnh
hưởng đến quản trị và các quy định; 4) Nguồn lực và quản lý chúng. Cách tiếp
cận hệ sinh thái này tích hợp tất cả các tổ chức có trách nhiệm, các nguồn lực
cần thiết, các dịch vụ được cung cấp, các cơ chế và công nghệ cung cấp dịch vụ(6).
Theo
Anand Singh, Megh Patel, một ngôi làng thông minh sẽ tạo điều kiện: (i) Cơ hội
kinh doanh trong nông nghiệp; (ii) Dịch vụ giáo dục được cải thiện; (iii) Dịch
vụ y tế; (iv) Chú trọng đến phúc lợi xã hội; (v) Tăng cường tham gia dân chủ;
(vi) Chất lượng cuộc sống được cải thiện; (vii) Công nghệ như một phương tiện
để phát triển toàn diện. Từ viết tắt SMART trong làng thông minh được hiểu là:
S - Bền vững, M - Đo lường được, A - Giá cả phải chăng, R - Có thể tái tạo, T -
Công nghệ(7).
Ở
Việt Nam, làng thông minh có thể được hiểu thống nhất là một cộng đồng xóm,
thôn, xã ở nông thôn sử dụng giải pháp sáng tạo dựa trên thế mạnh và cơ hội của
địa phương, với cách tiếp cận có sự tham gia, chia sẻ để phát triển và thực
hiện chiến lược kinh tế, xã hội nhằm cải thiện điều kiện kinh tế, xã hội và môi
trường.
Trong
làng thông minh, các giá trị truyền thống và dịch vụ mới được tăng cường bằng
các phương tiện kỹ thuật số, công nghệ viễn thông, đổi mới sáng tạo và việc sử
dụng tri thức tốt hơn, vì lợi ích của người dân và doanh nghiệp.
2.
Chủ trương về chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn và xây dựng làng thông
minh ở Việt Nam
Nông
nghiệp, nông dân và nông thôn là một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ gắn
bó, khăng khít. Trong đó, nông nghiệp là bộ phận quan trọng của nền kinh tế
quốc dân, là ngành nghề chính tạo việc làm và thu nhập cho nông dân. Nông dân
là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; nông
thôn là địa bàn cư trú, là môi trường sản xuất và môi trường sống của nông dân.
Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26/NQTW ngày
5-8-2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết này được coi là một
bước ngoặt quan trọng trong việc xác định rõ hơn vị trí chiến lược và mối quan
hệ gắn bó của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết khẳng định:
Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân
là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng
các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản;
phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt(8).
Đại
hội XIII của Đảng khẳng định: Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá
trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn... Huy động và phát triển các nguồn lực khác
để thực hiện thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và
nông dân văn minh(9).
Nhận
thức được những lợi ích to lớn của chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số định hướng, chủ trương và chiến lược nhằm
khai thác các cơ hội do công nghệ số mang lại. Nông nghiệp số ở Việt Nam được
phát triển trên nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, do đó các chính sách
đều nằm trong khung chính sách chung về phát triển nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao. Chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn nằm trong cấu trúc chung của nền
kinh tế số, bắt nhịp với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư.
Chính
phủ đã ban hành một loạt các chủ trương, chính sách lớn thúc đẩy quá trình
chuyển đổi số như: Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 14-1-2020 về Thúc đẩy phát triển
công nghệ số Việt Nam; Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17-4-2020 của Chính phủ ban
hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày
27-9-2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3-6-2020
phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm
2030. Trong bối cảnh chuyển đổi số là xu hướng tất yếu, việc ứng dụng công
nghệ cao, công nghệ kỹ thuật số, hệ thống cơ sở dữ liệu lớn là những nội dung
cần được áp dụng trong mô hình xây dựng làng thông minh.
Đặc
biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, những khái niệm như chuyển đổi số,
kinh tế số, xã hội số lần đầu tiên được đề cập. Nội hàm của những khái niệm này
cũng được nhấn mạnh nhiều lần trong mục tiêu, quan điểm và chiến lược phát
triển. Với kỳ vọng là cuộc cách mạng số sẽ thực sự tạo ra được sự bứt phá cho
phát triển đất nước ta trong những thập niên tới, Đảng ta đã đặt ra yêu cầu
thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để
tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Ba đột phá chiến lược gồm: hoàn thiện đồng bộ thể chế, phát triển
nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng gắn với chuyển đổi số.
Đại
hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh chiến lược xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ là yếu tố rất quan trọng, trong đó chú trọng phát triển hạ tầng thông
tin viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh
tế số và xã hội số. Mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế số là phấn đấu đến
năm 2030 hoàn thành xây dựng chính phủ số, kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP cả
nước, Việt Nam phấn đấu đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp
thứ 3 trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử và kinh tế số.
Như
vậy, Việt Nam là một trong những quốc gia sớm có chương trình, chiến lược về
chuyển đổi số quốc gia, có nhận thức về chuyển đổi số cùng các quốc gia tiên
tiến trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam chủ động khai thác
triệt để các cơ hội mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại và bứt
phá vươn lên.
Trong
lĩnh vực nông nghiệp, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát
triển, ứng dụng công nghệ cao. Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1895/QĐ-TTg
ngày 17-12-2013 phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020.
Trên cơ sở chương trình này, Chính phủ đã ban hành Quy hoạch tổng thể về các
vùng, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và quy chế công nhận doanh nghiệp
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Việt Nam.
Hiện
nay, phát huy vai trò của nông dân Việt Nam không thể tách rời quá trình phát
triển nông nghiệp công nghệ cao và xây dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung
quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng
và phát triển bền vững. Khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, sạch, nông
nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh,
thích ứng với biến đổi khí hậu(10) ; Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa, đi vào chiều
sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn
mới kiểu mẫu...(11).
Đầu
năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình quốc gia phát triển
công nghệ cao đến năm 2030, được ban hành theo Quyết định số 130/QĐTTg ngày
27-01-2021, trong đó, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là một nội
dung quan trọng.
Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các bộ, ngành và địa phương
xây dựng thí điểm một số mô hình làng, xã thông minh ứng dụng chuyển đổi số
trên cả nước, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm và đề xuất cơ chế, chính sách phát
triển làng, xã thông minh phục vụ Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2021-2025.
Ngày
02-8-2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 924/QĐ-TTg phê duyệt Chương
trình chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông
minh giai đoạn 2021 - 2025.
3.
Một số mô hình thí điểm làng thông minh ở Việt Nam
Mô
hình làng thông minh ở Việt Nam đang có những tín hiệu khởi động cho giai đoạn
2020 - 2025 và tầm nhìn 2030 - 2045. Các làng thông minh tuy ở vùng nông thôn
nhưng sẽ không thua kém đô thị về sức sản xuất, về năng suất lao động, về tính
cạnh tranh, an sinh và hưởng các dịch vụ xã hội, góp phần tạo ra một không gian
đáng sống cho người dân, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị nếu
được đầu tư phát triển hạ tầng và dịch vụ kết nối. Đặc biệt, mô hình này còn
tạo động lực cho các lĩnh vực du lịch sinh thái, du lịch sức khỏe, du lịch y
tế, du lịch trải nghiệm, du lịch nghiên cứu... cùng phát triển.
Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét đưa nội dung về công nghệ số trong
nông thôn mới thành một nội dung trọng tâm trong các giải pháp phát triển. Bộ
Thông tin và Truyền thông đã chủ trì, phối hợp với doanh nghiệp công nghệ số
thí điểm mô hình Xã thông minh bao gồm: xã Bạch Đằng (thị xã Tân Uyên, tỉnh
Bình Dương); xã Vi Hương (huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn); xã Yên Hòa (huyện
Yên Mô, tỉnh Ninh Bình); xã An Nhơn (huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp); xã
Quảng Thọ (huyện Quảng Điền) và xã Vinh Hưng (huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên
Huế)...
Mô
hình làng thông minh ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền và xã Vinh Hưng, huyện
Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế
Ngày
18-8-2021, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành Kế hoạch số 265/KH-UBND về xây
dựng mô hình Xã thông minh, triển khai thí điểm tại xã Quảng Thọ, huyện Quảng
Điền và xã Vinh Hưng, huyện Phú Lộc dựa trên 3 trụ cột chính gồm: Thiết chế
thông minh, Con người thông minh và Công nghệ thông minh. Nội dung kế hoạch bao
gồm: hoàn thiện chính quyền điện tử, hướng đến chính quyền số; xây dựng các hệ
thống thông tin tích hợp phục vụ cho xã hội số; xây dựng mô hình hợp tác xã số,
doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ số và từng bước triển khai một số
dịch vụ cho kinh tế số nông thôn.
Đến
nay, mô hình làng thông minh ở Thừa Thiên Huế đã đạt một số kết quả nhất định.
Trung tâm Công nghệ thông tin tỉnh (HueCIT), Trung tâm Giám sát và Điều hành đô
thị thông minh (HueIOC) cùng các đơn vị liên quan đã tổ chức ra mắt và bàn giao
các sản phẩm ứng dụng công nghệ thông tin - một phần của mô hình xã thông minh
- cho UBND xã Quảng Thọ cuối tháng 3-2021. Ngoài ra, HueCIT đã bàn giao Trang
thông tin tổng hợp xã thông minh (http://quangtho.huecit.com/) và chuyên trang
Hợp tác xã số (http://htxquangtho1.huecit.com) tích hợp thêm chức năng thương
mại điện tử. Đây là bước tạo đà cho việc triển khai giải pháp quản trị hợp tác
xã thông minh, quản lý sản xuất và hỗ trợ ra quyết định; ứng dụng hệ thống quan
trắc môi trường thời gian thực và hỗ trợ điều hành, quản lý sản xuất nông
nghiệp.
Huyện
Quảng Điền đã đầu tư cho xã Quảng Thọ phòng quản lý điều hành thông minh, 7
điểm phát wifi miễn phí ở 8 thôn; lắp đặt gần 20 camera an ninh (trong đó có 3
camera thông minh) để giám sát trên các trục chính tỉnh lộ, huyện lộ, liên thôn
và các cơ quan, trường học với nhiệm vụ kết nối thông tin, dữ liệu, dịch vụ, hạ
tầng toàn diện.
Mô
hình làng thông minh tại tỉnh Thừa Thiên Huế bước đầu phát huy hiệu quả, đem
lại lợi ích cho người dân, như: giúp người dân chủ động ứng phó với thiên tai,
mưa bão; giám sát môi trường để phục vụ nuôi trồng thủy hải sản; quảng bá hệ
thống du lịch bằng công nghệ thực tế ảo nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội địa
phương; giúp công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đạt hiệu quả;... Đặc
biệt, sau khi đưa vào hoạt động mô hình xã thông minh, tình hình an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được bảo đảm.
Mô
hình làng thông minh ở xã Vi Hương (huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn) được xây
dựng với các nội dung trọng tâm như sau: chính quyền xã thông minh; giao tiếp
trực tuyến với người dân; thương mại điện tử; dịch vụ xã hội; du lịch; quảng bá
thương hiệu trực tuyến.
Tới
nay, mô hình đã lắp đặt trạm phát sóng di động 4G; trạm wifi công cộng tại khu
vực UBND xã; xây dựng các kênh giao tiếp, tương tác thuận tiện hơn với người
dân; nâng cấp hệ thống loa truyền thanh thông minh, cài đặt phần mềm chuyển văn
bản sang âm thanh thông qua nền tảng trí tuệ nhân tạo AI; triển khai các hoạt
động thương mại điện tử nhằm quảng bá, tiếp thị và bán các sản phẩm của địa
phương; triển khai nền tảng kết nối thương mại điện tử cho các sản phẩm nông
sản của xã; phần mềm bán hàng Shop One; triển khai cầu truyền hình và nền tảng
hỗ trợ hệ thống khám chữa bệnh từ xa Telehealth tại trạm y tế.
Mô
hình đã đạt một số kết quả cụ thể như sau:
Về
chính quyền xã thông minh: Việc thực hiện chuyển đổi số đã được thực hiện
nghiêm túc trong quy trình tiếp nhận và xử lý văn bản, không gây tồn đọng trong
tiếp nhận, xử lý văn bản. Đến nay, đã tiếp nhận và giải quyết 692 hồ sơ dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3 trên hệ thống Một cửa điện tử. Trang điện tử của xã
được huyện hỗ trợ, xây dựng từ năm 2012 và được nâng cấp trong năm 2020.
Về
giao tiếp với người dân: Việc thực hiện mô hình đã thay đổi cách thức giao tiếp
giữa chính quyền xã với nhân dân thông qua hệ thống loa phát thanh thông minh,
giúp tuyên tuyền nhiều nội dung hơn, nhanh hơn và kịp thời hơn mà không phát
sinh biên chế phát thanh viên. Thông tin của chính quyền xã được gửi đến nhân
dân thông qua các nhóm zalo một cách nhanh chóng, giúp người dân nắm bắt kịp
thời các nội dung, tinh thần chỉ đạo của lãnh đạo xã, tăng cường sự tin tưởng,
gần gũi hơn giữa chính quyền và nhân dân. Người dân được hỗ trợ sử dụng wifi,
mạng internet công cộng miễn phí, được tập huấn, tiếp cận và sử dụng nhanh
chóng hình thức tư vấn, bán hàng qua mạng.
Về
thương mại điện tử và quảng bá thương hiệu: các đơn vị tham gia xây dựng mô
hình thí điểm đã hỗ trợ quảng bá, tiếp thị và bán các sản phẩm của địa phương
trên mạng internet; hướng dẫn người dân tạo tài khoản, viết bài, chụp hình, xây
dựng các video quảng bá sản phẩm, dịch vụ để đăng trên các sàn thương mại điện
tử, các mạng xã hội, sử dụng các phương thức thanh toán điện tử an toàn, tin
cậy, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Hợp
tác xã Thiên An được hỗ trợ thúc đẩy phát triển thương mại điện tử đã xây dựng
website giới thiệu các sản phẩm nông nghiệp; xây dựng fanpage trên Facebook;
xây dựng nền tảng kết nối thương mại điện tử dành cho nông sản AgriConnect để
kết nối các gian hàng trên các sàn như Postmart, Tiki, Shopee...; phối hợp với
Viettel Post và VNPost vận chuyển hàng hóa. Các sản phẩm có mã vạch QR code để
truy xuất nguồn gốc sản phẩm, ứng dụng BlockChain để kiểm định chất lượng tất
cả các khâu. Hợp tác xã Thiên An có trang thông tin điện tử tại địa chỉ:
https://hoptacxathienan.com/.
Về
dịch vụ xã hội: Trong lĩnh vực y tế, hỗ trợ trang bị thiết bị y tế thông minh
Telehealth và nền tảng hỗ trợ khám chữa bệnh từ xa để truyền nhận âm thanh,
hình ảnh kết nối với các bệnh viện trong cả nước. Trong lĩnh vực giáo dục, các
trường học trên địa bàn đã được số hóa, sử dụng hồ sơ điện tử, cung cấp sổ liên
lạc điện tử SMAS (SMS Parents, SParent), phân hệ quản lý thư viện và tuyển sinh
đầu cấp cho các nhà trường; thực hiện nộp các khoản đóng góp của học sinh qua
hệ thống tài khoản ngân hàng.
Mô
hình thí điểm làng thông minh tại xã Vi Hương đã mang lại một số kết quả tích
cực, nổi bật trong lĩnh vực y tế, giáo dục thông minh và thương mại điện tử cho
các sản phẩm đặc trưng của địa phương. Tuy nhiên, mô hình còn gặp nhiều hạn chế
trong quá trình triển khai vì Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nên hạ tầng còn khá
lạc hậu, nhiều cơ sở dữ liệu của các ngành, địa phương chưa được số hóa hoặc đã
số hóa nhưng còn phân tán, nhỏ lẻ, thiếu tính kết nối, liên thông. Một số người
dân, doanh nghiệp chưa nhận thức được lợi ích do chuyển đổi số mang lại; kiến
thức, kỹ năng trong chuyển đổi số còn ở mức thấp, kể cả đội ngũ cán bộ thực
hiện nhiệm vụ chuyển đổi số tại các cơ quan, địa phương, đơn vị.
3.
Khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai mô hình làng thông minh tại Việt Nam
Mặc
dù đã được triển khai thí điểm tại một số xã trên địa bàn cả nước và mang lại
kết quả tích cực, nhưng có thể thấy, việc triển khai mô hình làng thông minh
tại Việt Nam còn một số khó khăn, vướng mắc sau:
Các
yếu tố khách quan
Việt
Nam có hình dạng lãnh thổ kéo dài và hẹp ngang, các vùng sản xuất nông nghiệp
phân bố trải dài theo các vùng khí hậu khác nhau. Với sự đa dạng về vùng miền,
dân tộc và các sản phẩm nông nghiệp, rất khó có thể áp dụng một mô hình làng
thông minh cụ thể mà cần linh hoạt theo điều kiện từng địa phương.
Sản
xuất nông nghiệp ở Việt Nam có quy mô nhỏ lẻ và manh mún. Năm 2017, cả nước có
gần 14 triệu hộ nông dân sở hữu khoảng 78 triệu mảnh ruộng nhỏ lẻ, quá trình
tích tụ và tập trung ruộng đất diễn ra khá chậm, vẫn còn hơn 70% mảnh đất sản
xuất nông nghiệp có diện tích dưới 0,5 ha(12). Quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ,
không tập trung khiến cho việc ứng dụng các công nghệ cao, công nghệ số còn hạn
chế.
Văn
hóa và thói quen sản xuất: Sự đa dạng về văn hóa cũng gây ra nhiều thách thức
trong quá trình chuyển đổi số. Việc ứng dụng, chuyển đổi số cho cộng đồng nông
thôn cần phù hợp với tập quán, đời sống văn hóa cộng đồng và sự phát triển các
dịch vụ kinh tế - xã hội. Việc áp dụng cùng lúc nhiều nền tảng số trên các lĩnh
vực Chính phủ số, Xã hội số và Kinh tế số có thể dẫn đến việc quá tải cho
chính quyền cấp xã cũng như chưa phù hợp với nếp sống nông thôn, điều kiện văn
hóa, canh tác, sản xuất của nông dân. Người dân một số vùng còn sản xuất manh
mún, nhỏ lẻ, chưa thay đổi được thói quen canh tác từ lâu đời, không có nguồn
tài chính để cơ giới hóa, chuyển đổi canh tác sau khi dồn điền đổi thửa.
Các
yếu tố chủ quan:
Trình
độ công nghệ chung của cả nước còn thấp, thị trường khoa học công nghệ kém phát
triển, tình trạng vi phạm bản quyền, mất thông tin, bí quyết, quy trình công
nghệ diễn ra phổ biến.
Chất
lượng nguồn nhân lực khu vực nông thôn tương đối thấp, chưa đáp ứng yêu cầu ứng
dụng công nghệ tiên tiến. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo
ở nông thôn năm 2019 chỉ đạt 16,3%(13). Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin
của người dân ở nhiều vùng còn hạn chế, trình độ học vấn chưa cao nên việc tiếp
thu kiến thức khoa học - kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất chưa đạt yêu cầu;
kiến thức, kỹ năng trong chuyển đổi số còn ở mức thấp. Đặc biệt, năng lực của
đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, chưa đáp ứng được yêu cầu
đề ra trong quá trình chuyển đổi số và xây dựng làng, xã thông minh.
Về
thể chế, chính sách: chưa ban hành được các chính sách, văn bản quy phạm pháp
luật quy định rõ tiêu chí cụ thể, quy trình xây dựng làng thông minh. Hiện nay,
các địa phương thực hiện thí điểm chỉ đang lồng ghép vào các tiêu chí của
chương trình nông thôn mới, do đó, chưa khuyến khích, thúc đẩy nhân rộng các mô
hình làng thông minh trên cả nước.
Kết
cấu hạ tầng phục vụ phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng công nghệ thông
tin còn lạc hậu, hạ tầng viễn thông băng rộng kém phát triển ở các vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa; mức độ bảo mật và an toàn thông tin kém. Nhiều vùng
còn khó khăn, chưa bảo đảm tiếp cận internet, chưa có nhiều thiết bị điện thoại
thông minh. Trang thiết bị cho các cán bộ, công chức xã còn hạn chế, cấu hình
kỹ thuật thấp, lạc hậu, thời gian sử dụng quá lâu. Hệ thống Logistic cho nông
nghiệp quy mô nhỏ, manh mún, thiếu kết cấu hạ tầng mềm cho ứng dụng kỹ thuật
số, thiếu các trung tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vườn ươm khởi nghiệp.
Về
cơ sở dữ liệu: nhiều cơ sở dữ liệu của các ngành, địa phương chưa được số hóa
hoặc đã số hóa nhưng còn phân tán, nhỏ lẻ, thiếu tính kết nối, liên thông, chia
sẻ giữa các cấp, các ngành.
4.
Giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới hướng tới nông
thôn thông minh ở Việt Nam
Một
là,
tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới
hướng tới nông thôn thông minh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận
thức, thay đổi tư duy về chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới cho cấp ủy,
chính quyền và người dân. Để từ đó tích cực, chủ động học hỏi và mạnh dạn ứng
dụng công nghệ số vào xây dựng chính quyền số, vào sản xuất, kinh doanh nông
nghiệp số và phát triển xã hội số ở nông thôn.
Để
làm được điều này, cần tăng cường công tác thông tin, truyền thông, tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, các hội nghị, hội thảo, các mô
hình khuyến nông về vai trò và lợi ích của việc ứng dụng công nghệ số trong
quản lý, sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Hai
là,
đẩy mạnh xây dựng chính quyền số trong xây dựng nông thôn mới. Tăng cường xây
dựng và hoàn thiện hệ thống dịch vụ công trực tuyến liên thông, đồng bộ các
cấp, hướng tới mức độ 3 - 4 ở cấp xã. Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành
chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ
chức, cá nhân trên môi trường mạng(14). Dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3, 4 cần đạt được các yêu cầu: phải tương thích với các trình
duyệt web thông dụng; dễ dàng tìm thấy dịch vụ; có cơ chế hướng dẫn, tự động
khai báo thông tin; có chức năng để người sử dụng đánh giá sự hài lòng đối với
dịch vụ sau khi sử dụng; bảo đảm thời gian xử lý, trao đổi dữ liệu nhanh; hoạt
động ổn định; có địa chỉ thư điện tử để tiếp nhận góp ý của người sử dụng(15).
Ba
là,
nâng cao năng lực sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin của người dân (sử
dụng smartphone, khai thác internet, sử dụng các phần mềm ứng dụng sản xuất và
tiêu thụ nông sản, bán hàng trực tuyến...), hình thành đội ngũ nông dân số gắn
liền với quá trình chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn.
Hội
Nông dân các cấp cần phối hợp với các tập đoàn, công ty viễn thông xây dựng các
dự án nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin
cho cán bộ, hội viên nông dân; nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng máy tính,
điện thoại thông minh và internet, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và đời sống
của nông dân.
Các
dự án cần tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn; tổ chức và nhân rộng các câu lạc
bộ, các cuộc thi Nông dân với internet, tổ chức các hội thảo chia sẻ kinh
nghiệm... Qua đó, nông dân được hướng dẫn, chia sẻ các kiến thức về sử dụng máy
tính, điện thoại thông minh và internet; giới thiệu những gương hội viên có mô
hình sản xuất, kinh doanh, trồng trọt, chăn nuôi làm ăn hiệu quả nhằm khích lệ
các thành viên tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm và chia sẻ với nhiều hội viên khác;
hướng dẫn cách khai thác, tìm hiểu thông tin giá cả thị trường, địa chỉ tin cậy
về giống, vốn, vật tư; giới thiệu và quảng bá nông sản...
Bốn
là,
thúc đẩy kinh tế số trong phát triển kinh tế nông thôn. Tăng cường ứng dụng
công nghệ số trong phát triển kinh tế nông thôn theo hướng kinh tế tuần hoàn.
Kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp được xác định là quá trình sản xuất theo
chu trình khép kín thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công
nghệ sinh học, công nghệ hóa lý, nhờ đó các chất thải, phế, phụ phẩm được tái
chế, làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thủy
sản, tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao, giảm lãng phí, thất thoát và giảm
tối đa lượng chất thải, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về tái sử
dụng phụ, phế phẩm trong sản xuất, bảo vệ môi trường.
Năm
là,
đẩy mạnh quá trình số hóa, xây dựng bản đồ số nông nghiệp, nông thôn, cơ sở dữ
liệu đồng bộ, thực hiện quản lý mã số vùng nguyên liệu, truy xuất nguồn gốc đối
với các sản phẩm nông nghiệp, nông thôn. Bản đồ số nông nghiệp có vị trí quan
trọng, bởi qua đó người dân, doanh nghiệp có thể biết được vị trí, chất đất,
khí hậu, thời tiết phù hợp với giống cây trồng nào, nguồn sản lượng ra sao...
Đây chính là cơ sở dữ liệu quan trọng giúp người dân và doanh nghiệp triển
khai, quy hoạch cây trồng, vật nuôi phù hợp.
Xây
dựng bản đồ nông sản Việt Nam và coi đây là kênh thông tin chính thức, giới
thiệu khách hàng tiềm năng cho sản phẩm nông sản từng địa phương. Thông qua môi
trường mạng có thể kết nối trực tiếp từng địa phương, hợp tác xã, hộ nông dân
sản xuất.
Sáu
là,
tăng cường chính sách hỗ trợ nông dân, hợp tác xã tiêu thụ nông sản vùng trên
sàn giao dịch thương mại điện tử. Mỗi địa phương cần xây dựng các chợ thương
mại điện tử với các sản phẩm nông nghiệp an toàn, sản xuất theo chuỗi, giúp
người tiêu dùng có cơ hội tiếp cận phương thức mua bán nông sản an toàn, hiện
đại dưới sự quản lý, giám sát chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm của cơ
quan quản lý. Phát triển công nghệ thông tin gắn với hỗ trợ nông dân, các hợp
tác xã, các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử như thiết lập, sử
dụng hệ thống thư điện tử với tên miền dùng riêng, hỗ trợ xây dựng website
thương mại điện tử, tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử, sử dụng
những công cụ kinh doanh điện tử (e-business)... tập huấn cho các hộ nông dân
thực hiện các kỹ năng livestream, họp nhóm, gửi hình ảnh hoặc video...; cùng
nông dân đóng gói, bảo quản, vận chuyển sản phẩm...
Cục
Xúc tiến Thương mại (Bộ Công thương) cần phối hợp với các sàn thương mại điện
tử đào tạo, tập huấn cho nông dân, chủ trang trại kỹ năng quảng bá sản phẩm; hỗ
trợ áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc, tạo điều kiện để nông dân hiểu và nắm
bắt rõ hơn về xu hướng và yêu cầu thị trường, từ đó tổ chức sản xuất hiệu quả,
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Tăng
cường, hỗ trợ các hoạt động bán nông sản trên các sàn thương mại điện tử với mô
hình phân phối trực tiếp từ nhà sản xuất tới người tiêu dùng, như một siêu thị
hàng Việt uy tín trên các sàn thương mại điện tử như: Sen Đỏ, Vỏ Sò (Viettel
Post), Tiki, Shopee, Postmart, Lazada theo các hình thức khác nhau nhằm hỗ trợ
tiêu thụ các nông sản, hàng Việt đến tay người tiêu dùng trên cả nước.
Bảy
là,
tập trung phát triển xã hội số trong xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ số trong hoạt động lấy ý kiến sự hài lòng của người dân về kết quả
xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ các tổ chức và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ số
đầu tư, phát triển và cung cấp dịch vụ trực tuyến về y tế, giáo dục, văn hóa,
xã hội, môi trường nông thôn ở các địa phương. Tuyên truyền, hướng dẫn và
khuyến khích người dân sử dụng các dịch vụ số và kỹ năng an toàn, trọng tâm là
dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ y tế số, giáo dục số, sử dụng các mạng xã hội,
mua bán trực tuyến, thanh toán điện tử và khai thác tiện ích, tài nguyên số.