BÀI
TUYÊN TRUYỀN VỀ VẤN ĐỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Bạo lực gia đình là vấn nạn của xã hội, gây nhức nhối
cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với
phụ nữ, trẻ em. Ở Việt Nam, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều
sự quan tâm tới việc phòng, chống bạo lực gia đình và đã ban hành nhiều đạo
luật trực tiếp và gián tiếp như: Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật Dân sự,.. và đặc biệt Luật phòng,
chống bạo lực gia đình 2007. Những văn bản này đã tạo ra nhiều chuyển biến tích
cực trong đời sống xã hội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Nhưng
đánh giá một cách khách quan thì các quy phạm pháp luật này chưa thực sự đi vào
cuộc sống, sự quan tâm và hiểu biết về lĩnh vực này chưa đi vào chiều sâu, tình
trạng bạo lực trong gia đình chưa có nhiều thay đổi và chưa có những chuyển
biến tích cực . Hơn thế nữa , hiện nay nó dần trở thành như một sự việc,hiện
tượng đáng quan tâm của toàn xã hội.

Gia
đình là chiếc nôi giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho
thế hệ sau
I. THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA
ĐÌNH
Bạo lực gia đình xuất phát từ cả hai phía vợ và chồng
đang ngày càng phát triển và gây nhức nhối trong xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là trẻ em. Nguyên nhân
của hiện tượng này rất nhiều, ngoài vấn đề tâm lý còn phải kể đến vấn đề đạo
đức, kiến thức giải quyết mâu thuẫn gia đình: là do họ không nhận thức được rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật,
không chỉ dừng lại ở những hành vi bạo lực mà còn ở những lời lẽ chửi bới,
những cách ứng xử thô bạo mà họ còn trực tiếp gây ra những tổn thương về thể
chất hoặc tính mạng của người chồng.
Ngoài ra hiện nay còn có tình trạng bạo lực giữa cha
mẹ và con cái. Với tâm lý, truyền thống, thói quen của người Việt, thì vấn
đề bạo lực giữa cha mẹ với con cái được xã hội chấp nhận và khá phổ
biến. Đặc biệt, là những trường hợp bạo lực với con cái vượt ra ngoài phạm
vi giáo dục - một tình trạng ngày càng gia tăng thì cần phải bị trừng trị
nghiêm khắc. Bên cạnh những hành vi từ phía cha mẹ đối với con cái, thì
bạo lực gia đình xuất phát từ người con đối với cha mẹ mình cũng đang ngày càng
gia tăng. Một số trường hợp người trẻ tuổi gây ra những tổn thương về cả vật
chất, tinh thần cho cha mẹ do sự thiếu kiềm chế, do đua đòi hư hỏng hoặc một
vài lý do khác. Điều này chứng tỏ một sự xuống cấp đạo đức nghiêm trọng
của một bộ phận giới trẻ hiện nay, nó hoàn toàn đi ngược lại với truyền thống
đề cao chữ “hiếu” của dân tộc Việt Nam.
Bạo lực gia đình giữa các thành viên khác
trong gia đình với nhau cũng đã tồn tại từ lâu nhưng chiến tỷ lệ không lớn, vì
mức độ phụ thuộc giữa các thành viên này không cao như giữa vợ chồng hay cha mẹ
với con. Nạn nhân chủ yếu của loại bạo lực này là phụ nữ và trẻ em khi mà các
thành viên này muốn tham gia vào sự “giáo dục” những người làm dâu, làm con
trong gia đình. Ngoài ra, những mâu thuẩn trong gia đình không tìm được cách
giải quyết cũng dẫn tới nạn bạo lực giữa các thành viên khác: anh em, chú cháu
đánh nhau vì xích mích, mâu thuẫn trong cuộc sống, vì tranh chấp tài sản, chị
em mắng chửi, nói xấu nhau.
II. THẾ NÀO LÀ BẠO LỰC VÀ BẠO LỰC GIA
ĐÌNH?
Bạo
lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc
có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác
trong gia đình” (Điều
1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007). Gia
đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội nên bạo lực gia đình
có thể coi là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với nhiều dạng thức khác
nhau. Xét về hình thức, có thể chia bạo lực gia đình thành các hình thức chủ
yếu sau:
- Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược
đãi, đánh đập thành viên gia đình, làmtổn thương tới sức khỏe, tính mạng của
họ.
- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói,
thái độ, hành vi làm tổn thương tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên
gia đình
- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm
tới các quyền lợi về kinh tế của thành viên gia đình (quyền sở hữu tài sản,
quyền tự do lao động)
- Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi
nào mang tính chất cưỡng ép trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia
đình, kể cả việc cưỡng ép sinh con.
Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu
hiện dưới nhiều hành vi khác nhau. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã quy
định các hành vi bạo lực bao gồm:
-Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi
cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm
danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường
xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và
chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly
hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có
hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình
hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động
quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành
viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành
viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
III. NGUYÊN TẮC PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA
ĐÌNH
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nguyên tắc phòng, chống
bạo lực gia đình gồm: “Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp
phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác
tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống
văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”. Đây là nguyên tắc chủ đạo trong phòng, chống bạo lực
gia đình bởi nhiều lý do. Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình mang tính
khép kín, với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc
trong gia đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào.Vì thế những vụ bạo lực gia
đình thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e ngại
của nạn nhân và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì khả
năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là không
dễ. Các quy định pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức của người
dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can thiệp thô bạo của pháp luật có thể dẫn
tới phá hoại các mối quan hệ các thành viên gia đình. Chính vì vậy, công tác
tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải trong vấn đề này là rất
quan trọng, góp phần định hướng hành vi của mỗi người: nạn nhân được trang bị
kiến thức để tự bảo vệ; người có thể có hành vi bạo lực có thể nhận thức được
tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế tốt hơn; những người xung quanh
biết được trách nhiệm tham gia phòng chống bạo lực gia đình và có ứng xử phù
hợp.

Việc tuyên truyền giáo dục nếu kết hợp với
truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc thì sẽ càng được
phát huy tốt hơn nữa, bởi vì người Việt Nam nói chung chịu tác động khá lớn từ
những tư tưởng này. Đặc biệt, ở những quan niệm “phép vua thua lệ làng”, trình
độ dân trí thấp thì việc giáo dục người dân thông qua các phong tục, tập quán
mới có thể phát huy hiệu quả lớn nhất.
Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện,
ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc chung của pháp luật.
Riêng trong lĩnh vực bạo lực gia đình, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp
thời các hành vi càng có ý nghĩa quan trọng, nếu không thì có thể trở thành
“thói quen”, được chấp nhận với cả nạn nhân, người vi phạm và người xung quanh.
Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng kéo dài
thì càng gây ra nhiều tổn thương cho nạn nhân, tổn thương tới mối quan hệ gia
đình. Điều này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu hành vi bị phát hiện và xử lý kịp
thời. “Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ,
giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế -
xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người
cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ.”
Giúp đỡ nạn nhân, bảo vệ quyền và lợi ích
của họ là điều cần thiết và được pháp luật ghi nhận như một nguyên tắc quan
trọng, mọi người đều phải tuân theo. Những vấn đề về gia đình, trong đó có bạo
lực gia đình thường không nhận được sự quan tâm sâu sắc và đúng đắn của những
người xung quanh, bởi vì họ coi đấy là chuyện riêng, chuyện nội bộ của mỗi nhà.
Từ đó, việc giúp đỡ nạn nhân trở nên hạn chế, nhất là khi họ còn lo sợsự trả
thù của người có hành vi bạo lực. Ngoài ra việc giúp đỡ nạn nhân như thế nào,
bằng những phương tiện gì cũng gây cho họ những lúng túng nhất định, do đó pháp
luật cho phép họ tùy khả năng, tình hình mà đưa ra những xử sự phù hợp nhất, ưu
tiên những đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi.
“Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá
nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia
đình.” Bạo lực gia đình từ lâu đã không còn là
vấn đề của mỗi gia đình mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội; do
đó việc phòng, chống bạo lực gia đình là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ
không phải chỉ là của nhà nước và những người có liên quan. Bên canh đó, công
tác phòng, chống bạo lực gia đình vốn gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên
thực tế, nên rất cần sự quan tâm phối hợp của tất cả các thành viên trong xã
hội.Việc quy định nguyên tắc này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng cũng như
sự cần thiết của việc phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng
đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình.
1. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể
a. Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực
gia đình
Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia
đình được quy định cụ thể tại Điều 5 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, bao
gồm:
1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền
sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của
mình;
b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp
dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này;
c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm
lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí
mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật này;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp
luật.
2. Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ
cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người
có thẩm quyền khi có yêu cầu.
Nạn nhân bạo lực gia đình , những người bị
chính người thân của mình gây ra những tổn thương nhất định, rất cần được sự
giúp đỡ của cộng đồng và xã hội. Khi hành vi bạo lực đã xảy ra trong gia đình
thì những thành viên gia đình vì những mối quan hệ với người thực hiện hành vi
bạo lực sẽ rất khó có sự can thiệp mạnh mẽ, dứt khoát cần thiết để bảo vệ nạn
nhân. Do đó, nạn nhân cần sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền bảo vệ, sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Việc quy định đây là quyền của nạn nhân, tức là nghĩa vụ của các chủ thể
khác phải thực hiện là hoàn toàn đúng đắn.
Bên cạnh đó, rất nhiều trường hợp, nạn
nhân bạo lực gia đình cần sự giúp đỡ về y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật. Những
tổn thương về thể chất có thể chữa lành bằng sự chăm sóc y tế, nhưng với tổn
thương về tâm lý, nạn nhân không dễ dàng vượt qua được.Những sợ hãi, hoang
mang, khủng hoảng
có thể theo họ một thời gian
dài, khiến họ không lấy lại sự cân bằng trong cuộc sống. Họ rất cần được tư vấn
tâm lý để vượt qua những nỗi ám ảnh này, họ cần được biết rằng họ không có lỗi
trong việc để hành vi bạo lực gia đình xảy ra, được hướng dẫn phải xử sự như
thế nào khi những hành vi này tiếp diễn. Đặc biệt, họ cần biết những quy định
của pháp luật về vấn đề này để nâng cao khả năng tự bảo vệ trong những trường
hợp tương tự.
Ngoài ra, nạn nhân cũng cần có một nơi để
tạm lánh để có thời gian cách li nhất định với người thực hiện hành vi bạo lực.
Điều này có tác dụng làm cho cả hai bên có thời gian, cơ hội để nhìn nhận sự
việc một rõ ràng hơn, bình tĩnh hơn. Với những kẻ thực hiện hành vi bạo lực một
cách côn đồ, hung hãn, không có điểm dừng thì nơi tạm lánh này là biện pháp hữu
hiệu nhất để bảo vệ nạn nhân.
Tuy nhiên, bên cạnh những quyền lợi như
vậy, nạn nhân bạo lực gia đình cũng phải thực hiện nghĩa vụ nhất định, đó là:cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu. Do tính chất nhạy cảm của tội phạm, cũng như mối
quan hệ đặc biệt của các chủ thể, pháp luật không đặt ra nghĩa vụ của nạn nhân
trong việc phòng chống bạo lực gia đình hay tố giác người có hành vi bạo lực
điều này hoàn toàn hợp lý. Vậy tại sao lại quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin
của nạn nhân? Bởi vì bạo lực dù diễn ra trong gia đình nhưng lại ảnh hưởng tới
sự phát triển chung của toàn xã hội, do đó cần phải được xử lý kịp thời; nạn
nhân cả bạo lực cần được bảo vệ, nhưng họ cũng cần tự bảo vệ mình trong giới
hạn nhất định, và đó có thể coi là trách nhiệm của họ với cộng đồng, xã hội.
b. Nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực
gia đình
Người có hành vi bạo lực gia đình là người
đã gây ra những tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại cho thành viên khác trong
gia đình. Tại Điều 4 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định rõ nghĩa vụ
của họ, bao gồm:
1. Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của
cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực.
2. Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền.
3. Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều
trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.
4. Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo
lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật.
Trước hết, khi thực hiện hành vi bạo lực
và bị phát hiện, người có hành vi bạo lực gia đình phải tôn trọng sự can thiệp
hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực. Tôn trọng sự can thiệp
có nghĩa là người có hành vi bạo lực gia đình phải lắng nghe, thực hiện theo
những yêu cầu chính đáng của cộng đồng, không được có thái độ hung hãn, chống
đối hay có ý định trả thù sự can thiệp đó. Quy định này tưởng chừng như chung
chung nhưng lại rất cụ thể và sâu sắc. Người có hành vi bạo lực gia đình không
chỉ thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của cộng đồng mà còn phải tôn trọng sự can
thiệp đó, nghĩa là bản thân họ phần nào nhận biết được tính đúng đắn của việc
can thiệp, cũng như phải có thái độ đúng mực với những người can thiệp.
Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền cũng là nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực. Trong lĩnh vực
phòng chống bạo lực gia đình, những chủ thể có thẩm quyền có thể đưa ra những
chế tài như: góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư, áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn. Việc bị xử lý hành vi bạo lực gia đình vốn không quen
thuộc với người Việt, vì rất nhiều nghĩ đó là quyền của họ. Do đó, quy định
người có hành vi bạo lực có nghĩa vụ chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền là cần thiết để tạo ra cơ sở pháp lý mạnh mẽ, buộc chủ thể phải
thực hiện, bảo đảm hiệu quả của công tác phòng, chống bạo lực gia đình.
Với những trường hợp nạn nhân bị tổn
thương về thể chất hoặc tinh thần, cần tới sự can thiệp của y tế thì người thực
hiện hành vi bạo lực phải kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc
nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. Đây tưởng chừng như
điều hiển nhiên, là ứng xử bắt buộc của các thành viên gia đình đối với nhau,
nhưng lại là điều rất khó thực hiện khi một bên là chủ thể, một bên là nạn nhân
của hành vi bạo lực. Người có hành vi bạo lực khi đã nhẫn tâm ra tay thì rất
khó có chuyện thương xót, lo lắng cho nạn nhân mà đưa họ đi chữa trị, chăm sóc;
hoặc có khi họ nhận thấy sai lầm của mình nhưngdo sợ bị phát hiện, sợ phải gánh
trách nhiệm nên không dám đưa nạn nhân tới cơ sở chữa trị.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình không
nhắc tới quyền mà chỉ quy định nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình.
Điều này trước hết có lẽ bởi vì những người này đã thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật, nên họ phải chịu những trách nhiệm nhất định và không được hưởng sự
bảo vệ của pháp luật trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận theo một khía
cạnh thì có thể thấy: nghĩa vụ mà Luật nêu lên cũng đã hàm chứa một số quyền
của họ: quyền nhận được sự can thiệp hợp pháp, quyền được thực hiện các hành
động nhằm khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra. Nếu nhìn nhận một cách
tổng quát, có thể thấy rằng những hành vi bạo lực gia đình xuất phát từ sự nhẫn
tâm, tàn ác, đê hèn không nhiều mà do những quan niệm sai lầm, do thiếu hiểu
biết, do không được trang bị kỹ năng giải quyết tranh chấp hoặc do nóng giận.
Do đó, pháp luật cũng cần phải cho họ những cơ hội để giác ngộ, sửa chữa sai
lầm, cũng là tạo cơ hội cho gia đình của họ được hàn gắn.
2. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình và
các cơ quan tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình
a. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình
Điều 32 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy đinh về trách nhiệm gia đình và các thành
viênnhư sau:
1.Giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình
thực hiện quy định củapháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và
gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội
khác.
2. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các
thành viên gia đình; can ngăn người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành
vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình.
3. Phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng
đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình.
4. Thực hiện các biện pháp khác về phòng,
chống bạo lực gia đình theo quy định của Luật này.
Phải khẳng định rằng gia đình và thành
viên gia đình đóng một vai trò rất quan trọng trong công tác phòng, chống bạo
lực gia đình. Bất cứ thành viên nào trong gia đình cũng có thể có hành vi bạo
lực gia đình: con mắng cha, vợ chì chiết chồng, mẹ chồng ruồng rẫy con dâu, anh
em tranh chấp tài sản dẫn đến đánh nhau....; đồng thời chính họ cũng dễ dàng
trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ đề cập
dưới một khía cạnh là người chứng kiến bạo lực gia đình. Cùng chung sống dưới
một mái nhà, họ là người chịu tác động trực tiếp của hành vi, có khả năng phát
hiện nhanh chóng cũng như tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến, mức độ của hành vi
bạo lực; họ cũng là người có khả năng thành công trong việc giáo dục, thuyết
phục người có hành vi bạo lực thay đổi hành vi bởi hai bên có sự hiểu biết
nhau, có mối quan hệ thân thiết nhau...
Tuy nhiên, trên thực tế đã cho thấy nhiều
trường hợp các thành viên khác trong gia đình đã tiếp tay cho hành vi bạo lực
như: mẹ xúi con trai giáo dục vợ bằng nắm đấm; ông bà yêu cầu phải nghiêm khắc dạy dỗ cháu...
Những hành động này phần nhiều không xuất phát từ ý xấu mà chỉ do quan niệm
khác nhau của mỗi người, nhưng lại tác động rất lớn đến người thực hiện hành vi
bạo lực.
Chính vậy pháp luật đã quy định gia đình
và các thành viên gia đình phải có những trách nhiệm, phải có sự chủ động nhất
định trong phòng, chống bạo lực gia đình: giáo dục, nhắc nhở, hòa giải mâu
thuẩn giữa các thành viên, ngăn chặn người có hành vi bạo lực; chăm sóc nạn
nhân...Đây là những việc họ hoàn toàn có khả năng thực hiện, còn việc có thực
hiện hay không, thực hiện như thế nào thì lại phụ thuộc vào mỗi người, mỗi gia
đình, mỗi hoàn cảnh. Pháp luật không quy định đây là nghĩa vụ mà chỉ là trách
nhiệm của gia đình và các thành viên. Tuy nhiên, nếu có những hành vi bị cấm
trong phòng, chống bạo lực gia đình thì họ phải chịu trách nhiệm theo quy định
của pháp luật:
* Điều
8. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định
tại Điều 2 của Luật này.
2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp
sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình.
3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh,
âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình.
4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ
nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực
gia đình.
5. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử
lý hành vi bạo lực gia đình.
6. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực
gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật.
7. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý
không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình.
Những hành vi cấm này không chỉ áp dụng
với các thành viên gia đình mà còn áp dụng cả những cá nhân không phải là thành
viên gia đình. Bên cạnh đó, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn quy định rõ
trách nhiệm của các cá nhân:
* Điều 31. Trách nhiệm của cá nhân
1. Thực hiện quy định của pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng,
chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác.
2. Kịp thời ngăn chặn hành vi bạo lực gia
đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
Những quy định này nhằm nâng cao tính chủ
động, tính cực của các cá nhân trong xã hội đối với việc phòng, chống bạo lực
gia đình cũng như giúp đỡ nạn nhân.
b. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khác
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã nêu
lên trách nhiệm của rất nhiều cơ quan, tổ chức, trong đó có thể kể tới trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, cụ thể:
* Điều 33. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
1. Tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích,
động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình,hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâmvà các
tệ nạn xã hội khác.
2. Kiến nghị những biện pháp cần thiết với
cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình,hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâmvà
các tệ nạn xã hội khác; tham gia phòng, chống bạo lực gia đình, chăm sóc, hỗ
trợ và bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình.
3. Tham gia giám sát việc thực hiện pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Bên cạnh đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
- Một thành viên của Mặt trận Tổ quốc cũng được giao một số trách nhiệm, như:
* Điều 34. Trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam
1. Thực hiện trách nhiệm quy định tại Điều
33 của Luật này.
2. Tổ chức cơ sở tư vấn về phòng, chống
bạo lực gia đình, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
3. Tổ chức các hoạt động dạy nghề, tín
dụng, tiết kiệm để hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
4. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên
quan để bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
Ngoài ra, Luật cũng quy định:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về phòng, chống bạo lực gia đình.
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu
trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực
gia đình.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịchthực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về
phòng, chống bạo lực gia đình tại địa phương. Trách nhiệm của một số Bộ, ngành cũng được cụ thể tại
các Điều từ 36 đến Điều 41).
3 / Xử lý vi phạm pháp luật về Phòng,
chống bạo lực gia đình
Điều 42 Luật Phòng chống bạo lực gia đình
quy định về xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình như sau:
1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi
phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Cán bộ, công chức, viên chức, người
thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi bạo lực gia đình nếu bị xử lý vi
phạm hành chính theo quy định của khoản 1 Điều này thì bị thông báo cho người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.
3. Chính phủ quy định cụ thể các hành vi vi
phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình, hình thức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình..
Như vậy, người có hành vi vi phạm pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình có thể bị xử lý bằng các biện pháp khác
nhau, cụ thể: Xử lý kỷ luật, Xử lý hành chính; Xử lý theo pháp luật dân sự; Xử
lý theo pháp luật hình sự./.